Viêm thận bể thận (VTBT) mạn là bệnh có gây tổn thương viêm mạn tính ở nhu mô thận, ở mô kẽ của thận, hậu quả của quá trình nhiễm khuẩn chủ yếu từ đài bể thận vào thận.
Nếu không do nhiễm khuẩn thì được gọi là viêm thận kẽ mạn tính. VTBT mạn là hậu quả của nhiễm khuẩn tiết niệu tái phát nhiều lần và tác nhân của nhiều yếu tố kết hợp như tắc đường dẫn niệu, trào ngược nước tiểu bàng quang - niệu quản, nếu không được phát hiện và xử trí điều trị kịp thời có thể dẫn đến suy thận mạn và tử vong.
Vì sao bị bệnh?
Nhiễm khuẩn tiết niệu và VTBT mạn thường chỉ do một chủng vi khuẩn và phần lớn là do chủng trực khuẩn bắt màu gram âm: Escherichia Coli (E. coli), Proteus, Klebsiella, Pseudomonas, Enterobacter; cầu khuẩn gram dương: Streptococcus faccalis, Staphylococcus... hoặc do trực khuẩn lao di chuyển theo đường máu từ phổi đến ở bệnh nhân có lao phổi. Ngoài ra có thể gặp VTBT mạn tính do virut, nấm nhưng hiếm.
Viêm bể thận mạn có thể dẫn đến suy thận
Các yếu tố thuận lợi dẫn đến VTBT mạn tính ở bệnh nhân có bệnh lý trào ngược bàng quang - niệu quản hoặc tắc đường dẫn niệu. Hiện tượng trào ngược là do cơ chế đóng mở van ở lỗ nối niệu quản - bàng quang bị suy yếu bẩm sinh hoặc mắc phải, do đó khi rặn đái hoặc khi bàng quang căng quá van này sẽ đóng không kín, nước tiểu từ bàng quang phụt ngược lên bể thận rồi vào thận mang theo cả vi khuẩn gây bệnh. Tắc đường dẫn niệu thường do sỏi, khối u bàng quang, u tuyến tiền liệt... gây ứ nước rồi gây VTBT mạn có nhiễm khuẩn kèm theo, gây ứ mủ ở thận.
Các triệu chứng thường gặp
Triệu chứng lâm sàng trong bệnh lý VTBT mạn tính rất khó xác định nên người bệnh thường đến bệnh viện muộn. Các biểu hiện có thể gặp khi người bệnh đến khám là sốt cao, rét run, đau vùng hố sườn lưng. Các biểu hiện ở vùng bàng quang như đau tức, đái buốt, đát rắt, đái khó, nước tiểu đục, có khi đái mủ.
Các triệu chứng thường gặp: Khi khám thấy bệnh nhân đau nhói vùng hố thắt lưng khi nắn, đôi khi sờ thấy thận to, hoặc đau lan vùng hố chậu, xuyên xuống dưới xương mu, lan ra tận bộ phận sinh dục ngoài. Có trường hợp kèm theo tăng huyết áp. Khi thận đã suy thì thường mệt mỏi, chán ăn, thiếu máu...
Xét nghiệm cần làm để chẩn đoán
Xét nghiệm thấy có hồng cầu giảm, bạch cầu tăng cao ở giai đoạn viêm, ứ mủ, có rối loạn về chức năng thận như urê máu cao, creatinin máu cao. Ngoài ra có thể dùng phương pháp thăm dò chức năng thận bằng đo mức lọc cầu thận qua hệ số thanh thải creatinin nội sinh để đánh giá chính xác mức độ suy thận.
Xét nghiệm giúp chẩn đoán viêm bể thận mạn
Chụp Xquang có thể phát hiện hình ảnh VTBT như bờ thận không đều, thận nhỏ hơn bình thường. Nếu thận to thì do ứ nước, ứ mủ. Chụp thận có bơm thuốc cản quang tĩnh mạch (UIV- urographie intraveineuse) sẽ đánh giá chính xác mức độ thương tổn, nguyên nhân. Ngoài ra có biện pháp thăm dò chuyên sâu như chụp động mạch thận, thận đồ phóng xạ, siêu âm thận, chụp cắt lớp vi tính có tiêm thuốc cản quang... rất có giá trị chẩn đoán bệnh và tìm được nguyên nhân. Ngoài ra các test hóa học, test enzym và phương pháp định lượng glucose niệu cũng cung cấp thông tin bổ sung chẩn đoán bệnh lý VTBT mạn.
Điều trị và phòng bệnh
Để chữa bệnh cần loại bỏ các yếu tố thuận lợi như lấy sỏi, cắt u phì đại tuyến tiền liệt, tạo hình sửa van niệu quản - bàng quang. Dùng kháng sinh sớm theo chỉ định của bác sĩ.
Nguyên tắc phòng bệnh VTBT mạn là chống các đợt nhiễm khuẩn tiết niệu và loại bỏ các yếu tố thuận lợi cho việc gây bệnh như sỏi, u, trào ngược nước tiểu... Hằng ngày phải uống đủ nước từ 2 - 2,5 lít đối với người lớn, vào mùa hè phải uống nhiều hơn, đảm bảo cho nước tiểu mỗi ngày tiết ra từ 1,5 - 2 lít.
Giữ vệ sinh cơ quan sinh dục, tiết niệu. Đối với nữ giới cần giữ vệ sinh kinh nguyệt. Các bạn trẻ thời kỳ tân hôn, nếu không biết giữ vệ sinh sinh dục, tiết niệu tốt có thể dẫn đến nhiễm khuẩn tiết niệu cấp, được gọi là “hội chứng tuần trăng mật”, đây cũng là một nguyên nhân đưa đến VTBT mạn về sau nên cần lưu ý.